Phaolô Trang Lập Quang
Xđ. Tùng Lâm, GP Đà Lạt
Nếu ai đã một lần đặt chân đến nghĩa trang Trung Châu đều phải ngỡ ngàng trước sự nề nếp và quy củ. Đó là một khu đất rộng gần năm hecta tọa lạc trên một ngọn đồi thấp được bao quanh bởi những hàng thông. Nơi đây thường ngày rất yên tĩnh không một bóng người, chỉ có tiếng chim ríu rít trên cành và những cánh hoa rừng đang khoe sắc giữa các hàng thông; chỉ có tiếng gió lùa qua kẽ lá và tiếng kêu xào xạc của những đám cỏ tranh mọc chung quanh nghĩa trang này.
Ở giữa khu đất là một con đường bê-tông rộng lớn chạy thẳng đến lễ đài, phân chia nghĩa trang thành hai phần: bên phải là mộ đàn bà, bên trái là mộ đàn ông, sau lưng lễ đài là mộ trẻ em và các thai nhi.
Nhiều ghế đá được xếp ngay ngắn theo hàng lối để giáo dân tham dự Thánh lễ vào ngày mùng Hai Tết, ngày 2 tháng 11 và các ngày thứ Hai đầu tháng… Tất cả các mộ đàn ông hay đàn bà đều xây cùng một kiểu, kích cỡ như nhau, không mộ nào cao hơn mộ nào và đều bằng nhau. Chỉ khác một điều là người nhiều tiền ốp bằng đá hoa cương còn người ít tiền lát bằng gạch men. Chôn cất thì theo thứ tự mộ này nối tiếp mộ kia không ai có quyền chọn lựa cho dù nghèo hèn hay giàu sang, cứ hai dãy mộ so le mà tiến tới. Sở dĩ có hai hàng so le là người ta muốn tránh đào huyệt gần những mộ mới vì vẫn còn nặng mùi có thể ảnh hưởng đến sức khỏe nên người đi trước được chôn cất ở hàng trên, còn người đi sau được chôn ở hàng dưới. Ngoại trừ những năm có nhiều người “chán sống” muốn “Chúa thương gọi về” để được định cư trên nghĩa trang này thì người ta mới đào huyệt dãn cách ra vì quá nhiều mộ mới. Nhưng trong thực tế chẳng ai thích “Chúa thương” để vào cái “thành phố thinh lặng này”.
Cách đây hai năm, bố của Hiển được “Chúa thương gọi về”. Để tỏ lòng hiếu kính và có một chút muốn “chơi trội” nên anh xây mộ cho bố thật lớn, thật cao, bất chấp những lời nhắc nhở và cảnh báo của ban quản lý nghĩa trang. Ngôi mộ trông thật đẹp mắt đứng sừng sững giữa đất thánh như thách đố các ngôi mộ khác, nhất là những người giàu có hay đại gia. Từ xa người ta có thể nhìn thấy và nhận biết ngay đó là mộ của bố Hiển đã nổi bật trong “thành phố thinh lặng” này.
Sau nhiều lần nhắc nhở rồi cảnh báo từ lúc Hiển bắt đầu khởi công nhưng anh vẫn để ngoài tai và nghĩ rằng: một khi “gạo đã nấu thành cơm” thì chẳng ai làm gì được anh. Vì thế ban quản lý nghĩa trang đã trình lên cha xứ để quyết định sự việc. Trong lúc ngôi mộ đang “ngạo nghễ” đứng giữa nghĩa trang để “thi gan cùng tuế nguyệt” thì giáo dân Trung Châu đã lên tiếng thực thi quy định chung và chỉ một ngày nó đã bị “sứt đầu mẻ trán” rồi biến thành đống gạch vụn.
Vừa tức giận vừa tiếc của nên Hiển cãi tay ngang với cha xứ, nhưng cha chỉ nói:
– Đây là quy định chung! Anh hãy vì mọi người chứ đừng bắt mọi người vì anh.
– Rõ ràng cha bắt mọi người vì cha nên quy định mộ nào cũng như mộ nào mà chỉ có một kiểu. Cha đã biến nghĩa trang thành cái nghĩa trang nhà quê chẳng có thẩm mỹ tí nào. Cha hãy đến xem những nghĩa trang khác người ta xây đủ kiểu trông thật đẹp mắt. Có mộ to mộ nhỏ, kiểu này kiểu nọ mới ra dáng một nghĩa trang chứ.
Cha xứ chưa kịp trả lời anh lại chặn ngang để nói tiếp như muốn trút hết cơn giận của mình.
– Nhiệm vụ của cha là làm cho đức tin giáo dân ngày một vững mạnh chứ không phải xây mộ theo ý cha. Cha có biết con đã bỏ ra hơn một trăm triệu. Bây giờ cha cho người đập phá ai đền con đây? Con đã mất hết đức tin! Con bỏ đạo! Chính cha đã làm con bỏ đạo!
Nói xong anh vùng vằng bước ra khỏi nhà xứ rồi từ đó không đi lễ nữa. Vài tháng sau anh cưới một cô gái người ngoại đạo rồi bắt đầu từ đó anh làm ăn thất bại triền miên. Vì không chịu được cảnh thiếu thốn, cô vợ cũng bỏ anh rồi đi theo người khác. Có người nói rằng:
– Biết luật mà phạm luật thì tội rất nặng. Có đạo mà bỏ đạo thì Chúa không tha. Chắc chắn anh ta đã bị Chúa phạt.
Chính anh cũng nghĩ rằng bỏ đạo là tội rất nặng vì không còn tin vào Chúa. Đã không tin vào Chúa là xúc phạm đến Chúa Thánh Thần vì Ngài là nguồn sức mạnh nuôi dưỡng đời sống đức tin. Tội xúc phạm đến Chúa Thánh Thần là tội không được tha. Nhưng anh đâu hiểu rằng Chúa rất giàu lòng thương xót, luôn tha thứ và chẳng bao giờ trừng phạt anh, có chăng chỉ là những điều cảnh tỉnh để anh nhìn lại chính mình.
Hôm ấy vào ngày đầu tháng 5, anh đang làm công nhật cho một chủ vườn hoa. Bỗng anh nghe bài thánh ca từ một ngôi thánh đường cách đó không xa vọng lại: “Ngàn hoa đẹp tươi, con dâng lên Nữ Vương, con dâng lên Nữ Vương cùng tiếng ca nguyện cầu tháng ngày vọng ngân, ôi Mẹ Chúa thiên đàng”. Những ký ức ngày nào khi anh cùng cộng đoàn dâng hoa và nét mặt dịu hiền của Đức Mẹ bỗng hiện lên trong tâm trí, rồi một nỗi buồn man mác đang xâm chiếm tâm hồn anh. Lúc này, những hoài niệm bắt đầu sống lại trong anh khi anh cùng với mọi người dâng những cành hoa tươi thắm để tỏ lòng thảo kính và tôn vinh Mẹ. Anh thì thầm trong lòng:
– Lạy Mẹ Maria! Con là kẻ có tội. Tội mà không tha thứ được vì đã xúc phạm đến Chúa Thánh Thần. Con đã đi quá xa không thể quay đầu lại được nữa. Xin Mẹ cầu Chúa tha thứ cho con.
Bỗng đứa con trai ông chủ vườn chỉ tay lên ngọn thông già.
– Bố ơi! Bắt cho con tổ chim.
Ông chủ vườn quay sang hỏi Hiển.
– Anh có biết trèo cây không?
– Dạ biết!
-Anh bắt tổ chim trên ngọn thông kia, tôi sẽ trả thêm công cho anh.
Leo trèo đối với Hiển là chuyện quá bình thường nên anh vui vẻ nhận lời ngay. Khi leo tới ngọn thông già, anh vừa đưa tay túm lấy tổ chim, bất ngờ một con rắn lục ngóc đầu lên định mổ vào tay anh. Thì ra con rắn đang ăn trứng chim nhưng anh không phát hiện ra nó, vì rắn lục có màu xanh của lá nên rất dễ hòa lẫn trong cùng một màu xanh. Anh giật bắn người và mất thăng bằng rồi té xuống.
Anh rơi trúng những cành cây to phía dưới và một nhánh thông nhỏ chọc vào giữa lưng và áo nên anh bị treo lơ lửng một vài giây. Chính trong khoảnh khắc này anh đã chụp được một cành cây gần đó rồi vội vàng leo xuống. Qua sự thoát chết dịu kỳ, anh cho rằng Đức Mẹ đã cứu anh. Một khi Mẹ đã ra tay cứu giúp, chứng tỏ Mẹ vẫn còn yêu thương và tha thứ cho anh.
Nghĩ thế, những ngày sau đó, anh quyết định trở về giáo xứ, bất chấp những lời khinh chê của mọi người vì anh vững tin Mẹ vẫn yêu thương và che chở cho anh. Nhưng thật bất ngờ, ai cũng vui vẻ chào đón anh và khuyên anh nên xưng tội và trở lại đạo vì lòng bao dung tha thứ của Chúa luôn cao hơn mọi tội lỗi mà ta vấp phạm, cho dù trước đây anh đã bỏ đạo và xúc phạm đến Chúa Thánh Thần nhưng một khi biết ăn năn thống hối thì Chúa sẽ tha hết mọi lỗi lầm.
Có lẽ “được tha thứ nhiều nên anh yêu mến Chúa nhiều hơn” (Lc 7,36-50). Vì thế, anh tham gia vào các hội đoàn Công giáo Tiến hành và năng nổ trong mọi công việc theo tinh thần Phúc âm và luôn thực thi lời Chúa. Anh đã biến đổi hoàn toàn nhờ lòng yêu thương cứu giúp của Đức Mẹ đã đưa anh về với Chúa và với cộng đoàn.
Ngày nay, tuy là Công Giáo nhưng nhiều người không đào sâu Kinh Thánh để hiểu biết về giáo lý cũng như lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa. Một khi đã phạm tội trọng họ không hiểu lòng bao dung tha thứ của Chúa luôn vượt lên trên mọi lỗi lầm. Chính vì thế họ cho rằng tội của mình không bao giờ được tha, đã “theo lao thì cứ phóng theo lao”nên càng lún sâu vào tội lỗi và xa rời Thiên Chúa
Phật giáo có câu “buông dao xuống sẽ thành Phật”. Nhưng Chúa còn hơn thế nữa, Ngài không chỉ để con người tự giác hoán cải mà luôn dõi theo từng bước chân ta để soi sáng, để kêu gọi ta hãy quay về đường ngay nẻo chính vì Chúa đã phán: “Ta không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Ta hãy nhìn lại vua Đa-vít. Vua đã giết tướng lĩnh của mình để cướp vợ. Đó là tội mà trời không dung đất không tha. Nhưng “Đức Chúa sai ông Na-than đến với vua Đa-vít” (2Samuen 12,1) để cảnh tỉnh và vua đã thành tâm ăn năn thống hối nên Chúa tha thứ hết mọi tội lỗi. Rồi một Phêrô chối Chúa ba lần, nhưng ý thức được tình yêu bao la của Chúa luôn vượt lên trên mọi tội lỗi của con người nên đã ăn năn thống hối. Chính điều này Chúa đã cất nhắc ông lên làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh. Và còn biết bao vị thánh khác mà trước đây đều là những tội nhân như thánh Madalena, Augustino…
Chỉ có những người không hiểu thấu trái tim biển trời của Chúa, không tin vào tình yêu bao la của Ngài mới không chịu quay về đường ngay nẻo chính nên cứ lún sâu vào tội lỗi rồi tự hủy hoại đời mình và rơi vào hỏa ngục đời đời như Giuđa Itcariot…
Ngoài việc để những người tội lỗi tự giác quay về đường ngay nẻo chính, Chúa còn kêu gọi họ với nhiều hình thức khác nhau nhất là thông qua Đức Mẹ, Chúa sẽ ban muôn ơn lành để củng cố niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Mẹ cũng luôn yêu thương và quan tâm đến chúng ta về phần xác cũng như phần hồn.
Trong tháng 5 này, chúng ta không chỉ dâng những cành hoa tươi thắm để tôn vinh Mẹ mà còn phải thực thi những sứ điệp của Mẹ để nhờ Mẹ chúng ta đến với Chúa Giêsu.