Luân lý – Bài 2: Tự do của con người

Bài 2: TỰ DO CỦA CON NGƯỜI

(x. SGLC từ 1730 đến 1748)

Lm Giuse Nguyễn Hữu An – GP Phan Thiết

"Tự do là điều thời nay rất ngưỡng mộ và hăng say theo đuổi… vì tự do đích thực là dấu hiệu đặc sắc nhất về hình ảnh Thiên Chúa nơi con người… vì thế phẩm giá con người đòi hỏi họ phải hành động theo một chọn lựa có ý thức, và tự do, nghĩa là chính họ phải được thúc đẩy và hướng dẫn từ nội tâm chứ không do bản năng hoặc áp lực bên ngoài" (MV 17).

Thiên Chúa ban cho con người tự do và người ta có trách nhiệm dùng tự do ấy để đạt tới hạnh phúc viên mãn Thiên Chúa hứa ban.

I. Tự do, một hồng ân cao qúy

 “Con người có lý trí, nên giống Thiên Chúa; con người được dựng nên có tự do và làm chủ các hành vi của mình ” (GS 17)

1/ Bản chất và đặc tính của tự do

Thiên Chúa muốn con người tự định liệu lấy hướng đi cho cuộc sống hầu có thể tìm kiếm Đấng Tạo hóa, kết hiệp với Người và tiến tới sự hoàn thiện trọn vẹn để đạt tới hạnh phúc. Vì thế Nguời ban tự do.

Tự do là khả năng bắt nguồn từ lý trí và ý chí để làm hay không làm việc này hay việc kia, nhờ đó con người có thể thực hiện những hành vi của mình. Tự do bao hàm sự chọn lựa giữa thiện và ác.

Vì có tự do nên con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình. Do đó họ có thể tiến tới sự thánh thiện hay tội lỗi, được coi là có tội hay có phúc, đáng được thưởng hay đáng bị phạt. Càng làm điều thiện, con người càng trở nên tự do. Khi bất tuân luật Chúa, con người đánh mất tự do và làm nô lệ cho dục vọng.

Vì có tự do, con người phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình. Tuy nhiên trách nhiệm và lỗi phạm có thể được giảm nhẹ hay không có nếu thiếu hiểu biết, bị áp bức, sợ hãi, tâm lý bất ổn hay do các nguyên nhân khác. Một hành vi bị quy trách khi xảy ra do lười biếng không tìm hiểu, học biết, chẳng hạn vì không học biết luật đi đường, nên lái xe gây tai nạn chết người.

Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, mỗi người sinh ra đều có tự do và chịu trách nhiệm về những hành vi của mình. Tự do gắn liền với phẩm giá con người, nên mọi người có bổn phận tôn trọng tự do của nhau.

2/ Tự do và ơn cứu độ

Tự do có thể bị lạm dụng. Nguyên tổ đã sử dụng tự do để chối từ tình thương Thiên Chúa, làm nô lệ cho tội lỗi và kéo theo bao lầm lạc khác nối tiếp nhau trong gia đình nhân loại.

Tự do có thể bị hiểu sai hoặc bị phủ nhận. Tự do không phải muốn suy nghĩ, nói năng, làm bất cứ điều gì; nhưng muốn sống tự do đích thực phải tuân giữ các giới luật của Chúa. Các môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội bất cứ nơi đâu cũng phải tạo điều kiện cho quyền tự do chính đáng được phát triển.

Vì lạm dụng tự do, chúng ta đã làm nô lệ cho tội lỗi. Để cứu chúng ta, Con Thiên Chúa đã đến giải thoát chúng ta, cứu chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và ban Thánh Thần làm cho chúng ta nên con người tự do thật.

3/ Tính luân lý của hành vi

Tính luân lý của hành vi (có tội hay không, nặng hay nhẹ) tùy thuộc vào đối tượng (phương tiện), mục đích (ý hướng) và hoàn cảnh.

Đối tượng là thiện ích cá nhân nhằm tới trong hành động. 

Ý hướng phát xuất do ý chí xác định mục tiêu của hành động. Nó là yếu tố cơ bản đánh giá tính luân lý của hành động. Chúng ta lưu ý một việc làm sai trái vì mục tiêu tốt vẫn là việc xấu (td: ăn cắp của người giàu giúp người nghèo); một việc làm tốt với mục tiêu sai trái vẫn là sai trái (td: để được tiếng khen là rộng rãi, thương người, ta làm việc bác ái, từ thiện).

Hoàn cảnh của hành vi là những yếu tố phụ ảnh hưởng, chi phối hành vi làm cho tính luân lý tăng hay giảm đi (lấy cắp nhiều hay ít). Hoàn cảnh không thay đổi hoàn toàn tính luân lý của hành vi.

Vậy một hành vi luân lý được coi là tốt thì có đối tượng tốt, mục đích tốt và hoàn cảnh tốt.

II. Tự do đích thực

Thiên Chúa tạo dựng con người có lý trí và tự do, nhờ đó có sáng kiến và làm chủ hành vi của mình. Tự do là khả năng hành động hoặc không hành động, làm cái nầy hay làm cái kia, chọn lựa sự thiện hoặc sự ác, tăng trưởng tới toàn thiện hoặc suy sụp trong tội lỗi. Tự do là nguồn mạch sinh ra khen thưởng hoặc quở phạt, có công hay đáng tội. Khi chọn bất tùng phục hoặc chọn sự ác là ta lạm dụng tự do, và làm cho mình "nô lệ tội lỗi" (x.ra 6,17). Trái lại, khi ta càng làm điều thiện, ta càng tự do hơn. Như vậy, con người chỉ tự do đích thực khi phục vụ điều thiện và sự công chính; và tự do ấy chỉ đạt tới hoàn hảo khi họ tìm kiếm Đấng Tạo Hóa và tự nguyện gắn bó với Người, nhờ đó họ đạt tới hạnh phúc thật. Đức Maria và các Thánh là những người tự do đích thực.

III. Tự do và trách nhiệm

Khi con người đã suy nghĩ và chủ ý hành động một cách tự do thì con người bị ràng buộc với hành động đó, nghĩa là phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Tất cả mọi hành động do con người đã trực tiếp muốn thì trách nhiệm qui về họ. Trách nhiệm này có thể giảm bớt, thậm chí có thể không còn nữa, do họ đã không hiểu biết, hoặc do vô tình mà làm, do bị bạo lực hay bị sợ hãi, do quá quen hoặc do cảm xúc quá mạnh, do các nhân tố tâm thần hoặc xã hội khác…

Như vậy, tự do là đặc tính của các hành vi thuộc con người, được gọi là hành vi nhân linh. Vì thế mỗi người đều có quyền tự nhiên đòi người khác phải thừa nhận mình là người có tự do và trách nhiệm; và khi mỗi người hành xử quyền tự do của mình là phải hành xử trong tôn trọng quyền hành xử tự do của người khác. Quyền hành xử tự do là một đòi hỏi không thể tách rời khỏi phẩm giá con người, nhất là trong vấn đề luân lý và tôn giáo. Quyền đó đòi dân luật phải công nhận cũng như bảo vệ trong những gì liên quan đến công ích và trật tự công cộng. Con người có trách nhiệm về tự do của mình và tôn trọng tự do chính đáng của người khác.

IV. Tự do và tội lỗi

Vì có ý chí tự do nên mỗi người phải tự quyết định về chính mình. Tuy nhiên tự do của con người chỉ có giới hạn và dễ lầm lẫn. Mà sự thực là họ đã lầm lẫn đã tự ý phạm tội, đã tự dối mình để chối bỏ dự án yêu thương của Thiên Chúa, và trở thành nô lệ tội lỗi. Việc con người sử dụng sai tự do của mình lúc ban đầu đã sinh ra muôn ngàn sai lầm khác, khiến "từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp… " (Mc 7,21,23) gây nên bao điều bất hạnh và áp bức suốt dòng lịch sử.

 Tự do của con người chỉ giới hạn nghĩa là họ không có quyền nói và làm bất cứ điều gì. Do đó, thật là sai lầm khi "con người tự coi mình được làm chủ tự do của mình, được tự túc để thỏa mãn tư lợi trong việc hưởng thụ của cải trần gian" (Thánh bộ Đức Tin). Ngoài ra, họ còn thường bỏ qua và vi phạm cả những điều kiện để hành xử tự do cách chính đáng trong phạm vi kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa… chẳng hạn chủ trương kinh tế chỉ huy độc tài quân phiệt, độc đảng, tôn giáo độc quyền… Những mù quáng và bất công đó khiến cho kẻ mạnh cũng như người yếu đuối bị cám dỗ vi phạm luật bác ái. Làm như thế con người gây tổn thương cho chính tự do của mình, trở thành nô lệ chính mình và cắt đứt tình anh em với mọi người, cũng như nổi loạn chống Thiên Chúa.

V. Tự do và ân sủng

Con người đã hành xử tự do sai lầm nên bị giam cầm trong nô lệ tội lỗi và sự xấu. Nhưng "Chúa Kitô đã dùng thập giá vinh quang để giải thoát cho ta được tự do" (Gl 5,1), và ban cho mỗi người quyền thống trị tội, đồng thời giúp ta tìm lại ý nghĩa của tự do, nhờ đó ta có thể đạt tới điều thiện và chu toàn ơn gọi "làm con cái Thiên Chúa" (Rm 8,21). Như thế, Chúa Kitô vừa ban khả năng vừa ban cả phương tiện để ta có thể đạt tới điều thiện cao nhất, đạt tới chí thiện "như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5,48). Khả năng và phương tiện ấy, giáo lý gọi là ân sủng.

Nhưng khi ban ân sủng cho ta, Thiên Chúa không cưỡng bức hay trấn áp ta, mà chỉ mời gọi ách dịu dàng êm ái. Ta luôn vẫn hoàn toàn tự do. Ta nghe theo để tiếp nhận khả năng cũng như phương tiện Thiên Chúa ban thì ta được phúc. Trái lại, ta nhất quyết từ chối hay phản đối thì ân sủng trở thành vô ích, chỉ còn lại lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa và lòng chai đá cứng cỏi của ta. Ân sủng của Chúa không cạnh tranh với tự do của ta, mà trái lại, hễ ta càng buông mình theo thúc đẩy của ân sủng thì tự do nội tâm của ta càng tăng triển, và ta càng được kiên vững trong thử thách cũng như trước mọi áp lực và cưỡng bức của trần gian; như kinh nghiệm cầu nguyện chứng tỏ. Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa sẽ dùng ân sủng để giáo dục tự do nội tâm của chúng ta, giúp ta trở thành những cộng tác viên tự nguyện cho công trình của Người trong Hội Thánh và thế giới.

VI. Tự do của con cái Thiên Chúa

Các nhà hiền triết Á Đông chúng ta xưa, chưa được ánh sáng Thiên Chúa mạc khải, nhưng đã trực giác rằng con người thuở ban sơ vốn có tính "thiện" và vẫn ấp ủ mơ ước đạt tới chí thiện, tuy chưa rõ chí thiện là gì. Khi Chúa Kitô đến, Người đã giải thoát ta khỏi nô lệ tội lỗi và mạc khải cho biết chí thiện là "hoàn thiện như Cha trên trời" (Mt 5,48). Tuy nhiên đó là lý tưởng siêu việt, con người tội lỗi làm sao vươn tới được, nhưng ta có ơn gọi và gương mẫu vừa tầm ta hơn là Đức Giêsu Kitô, Con Chúa Cha, Đấng đã xuống thế làm người để trở nên Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc (x.ra 8,29). Ơn gọi của ta là trở nên nghĩa tử của Chúa Cha, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô "Đấng đã giải thoát chúng ta để chúng ta được tự do" (Gl 5,1). Do đó, ta có bổn phận tự nguyện đáp trả ơn gọi ấy bằng cách luôn chiến đấu để đạt tới "tự do của con cái Thiên Chúa" (Rm 8,21). Thánh Phêrô căn dặn "Anh em hãy sống như những người tự do, không phải như những người lấy tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như tôi tớ của Thiên Chúa" (1Pr 2,16). Thánh Phaolô cũng khuyên: "Anh em đã được gọi để hưởng tự do, có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau" (Gl 5,13).

 Đó là cuộc chiến đấu thường ngày của mỗi người, cuộc chiến đấu không dễ dàng, vì Đức Giêsu cũng đã bị cám dỗ, Kitô hữu luôn phải đối diện với cám dỗ thử thách. Kitô hữu phải không ngừng chế ngự và thuần hóa cái lý trí và ý chí phàm tục, thường chống lại tự do của con cái Thiên Chúa. Chế ngự và thuần hóa bằng cách buông theo ân sủng của Chúa Thánh Thần, bởi vì "ở đâu có Thần Khí của Chúa, ở đó có tự do" (2Cr 3,17). Thần Khí của Chúa giúp ta trở nên tôi tớ để phục vụ Thiên Chúa và anh em như Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.

Một số nguyên tắc thực hành:

– Không bao giờ được làm điều xấu để đạt mục tiêu tốt.

– Phải lấy nguyên tắc sau đây làm kim chỉ nam: những gì ta muốn người ta làm cho mình thì làm cho người ta như vậy và ngược lại.

– Phải tôn trọng người khác và tôn trọng tự do lương tâm.