Ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy.
Bài đọc 1: 2 Sm 7,4-5a.12-14a.16
Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.
Bài trích sách Sa-mu-en quyển thứ hai.
4 Hồi ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Na-than rằng :
5a “Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đa-vít : Đức Chúa phán thế này : 12 Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. 13 Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. 14a Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. 16 Trước mặt Ta, nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững, và ngai vàng của ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời.”
Đáp ca: Tv 88,2-3.4-5.27 và 29 (Đ. c.37)
Đ.Dòng dõi Người sẽ trường tồn vạn kỷ.
2Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng,
qua muôn ngàn thế hệ
miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài.3Vâng con nói : “Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu,
lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời.”
Đ.Dòng dõi Người sẽ trường tồn vạn kỷ.
4Xưa Chúa phán : “Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn,
đã thề cùng Đa-vít, nghĩa bộc Ta,5rằng : dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời,
ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ.”
Đ.Dòng dõi Người sẽ trường tồn vạn kỷ.
27Người sẽ thưa với Ta : “Ngài chính là Thân Phụ,
là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ !”29Ta sẽ yêu thương Người đến muôn thuở
và thành tín giữ giao ước với Người.
Đ.Dòng dõi Người sẽ trường tồn vạn kỷ.
Bài đọc 2: Rm 4,13.16-18.22
Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
13 Thưa anh em, không phải chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp ; nhưng ông được lời hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin. 16 Bởi vậy, vì tin mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa ; như thế lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Áp-ra-ham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông. Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy, 17 như có lời chép : Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hoá có.
18 Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán : Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. 22 Bởi vậy, ông được kể là người công chính.
Tin mừng: Mt 1,16.18-21.24a
16 Ông Gia-cóp sinh ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.
18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô : bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.
19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.
20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.
21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”
24a Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy.
Giáo lý cho bài giảng Lễ Thánh Giuse (19/3)
WHĐ (18/3/2024) – Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh thánh của lễ trọng Thánh Giuse (19/3) theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.
Số 437, 497, 532-534, 1014, 1846, 2177: Thánh Giuse Số 2214-2220: Bổn phận của con cái đối với cha mẹ Bài Ðọc I: 2Sm 7, 4–5a. 12–14a. 16 Bài Ðọc II: Rm 4,13. 16–18. 22 Phúc Âm: Mt 1,16. 18–21. 24a Hoặc Phúc Âm: Lc 2, 41–51a |
Số 437, 497, 532-534, 1014, 1846, 2177: Thánh Giuse
- Thiên thần đã loan báo cho các mục đồng việc Giáng Sinh của Chúa Giêsu, với tính cách là việc ra đời của Đấng Messia đã được hứa ban cho Israel: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đavid, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11). Ngay từ đầu, Chúa Giêsu là “Đấng Chúa Cha đã hiến thánh và sai đến thế gian” (Ga l0,36), với tư cách là “Đấng Thánh” (Lc 1,35) được cưu mang trong lòng dạ trinh khiết của Đức Maria[1]. Thánh Giuse được Thiên Chúa kêu gọi đón bà Maria vợ ông về, “vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20), để Chúa Giêsu, “cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1,16), được sinh ra do vợ ông Giuse trong dòng tộc thiên sai (in generatione messianica) của vua Đavid.[2]
- Các trình thuật Tin Mừng[3] hiểu việc thụ thai đồng trinh như một công trình của Thiên Chúa, vượt quá mọi hiểu biết và mọi khả năng nhân loại[4]: Thiên thần đã nói với ông Giuse về Đức Maria, hiền thê của ông rằng: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt l,20). Hội Thánh nhận ra đây là việc thực hiện lời hứa của Thiên Chúa qua miệng tiên tri Isaia: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai” (Is 7,l4), theo bản Hy lạp của Mt 1,23.
- Sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với Mẹ Người và cha nuôi của Người là chu toàn cách trọn hảo điều răn thứ tư. Sự vâng phục ở trần gian là hình ảnh của sự vâng phục con thảo của Người đối với Cha trên trời của Ngươi. Việc Chúa Giêsu hằng ngày vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria loan báo và tham dự trước vào sự tuân phục của lời cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Xin đừng cho ý con thể hiện…” (Lc 22,42). Sự vâng phục của Đức Kitô trong các hoàn cảnh thường ngày của cuộc đời ẩn dật đã khởi đầu công trình tái tạo những gì mà ông Ađam đã phá huỷ vì bất tuân[5].
- Cuộc đời ẩn dật ở Nazareth cho phép mọi người hiệp thông với Chúa Giêsu qua những lối sống thông thường nhất:
“Ngôi nhà Nazareth là mái trường nơi chúng ta bắt đầu học về cuộc đời Chúa Giêsu; đây là trường dạy Tin Mừng. Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước gì chúng ta biết quý chuộng sự thinh lặng, vì đó là bầu khí tuyệt vời và tối cần cho tâm hồn…. Kế đến là bài học về đời sống gia đình: Ước gì Nazareth dạy chúng ta biết gia đình là gì, sự hiệp thông tình yêu của gia đình là gì, vẻ đẹp quan trọng và bừng sáng của gia đình là gì, tính chất thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình là gì…. Sau cùng là bài học về lao động. Ôi Nazareth, ngôi nhà của “Con bác thợ mộc”, chính tại đây, chúng ta muốn hiểu biết và đề cao bổn phận lao động của con người, tuy nhọc nhằn nhưng đem lại ơn cứu chuộc…. Sau hết, tại đây chúng tôi muốn chào mừng mọi người lao động trên toàn thế giới, và chỉ cho họ một mẫu mực vĩ đại, là người anh thần linh của họ”[6].
- Việc tìm thấy Chúa Giêsu trong Đền thờ[7] là biến cố duy nhất phá vỡ sự im lặng của các sách Tin Mừng về những năm tháng ẩn dật của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cho chúng ta thoáng thấy mầu nhiệm của sự tận hiến của Người cho sứ vụ xuất phát từ tư cách làm Con Thiên Chúa của Người. “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49) Đức Maria và thánh Giuse “không hiểu” lời này, nhưng đón nhận lời ấy trong đức tin, và Đức Maria “hằng ghi nhớ những điều ấy trong lòng”, suốt những năm dài Chúa Giêsu ẩn mình trong sự thinh lặng của cuộc đời bình thường.
- Hội Thánh khuyên chúng ta hãy chuẩn bị cho giờ chết của chúng ta (“Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi chết đột ngột và bất ngờ”: Kinh Cầu Các Thánh cũ), hãy khấn xin Mẹ Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta “trong giờ lâm tử” (kinh Kính Mừng) và hãy phó thác cho thánh Giuse là bổn mạng của ơn chết lành:
“Trong mọi hành động và suy nghĩ, con phải xử sự như con sắp chết tức thì. Nếu con có lương tâm tốt lành, con sẽ không quá sợ sự chết. Xa lánh tội lỗi thì tốt hơn là trốn tránh sự chết. Nếu hôm nay con không sẵn sàng, thì làm sao ngày mai con sẵn sàng được?”[8]
“Lạy Chúa, chúc tụng Chúa vì chị chết thể xác, không người nào sống mà có thể thoát được chị. Khốn cho những ai chết trong những tội trọng; phúc cho những ai, mà chị gặp, đang ở trong thánh ý Chúa, bởi vì cái chết thứ hai sẽ không làm gì hại cho họ”[9].
- Tin Mừng là sự mạc khải, trong Chúa Giêsu Kitô, lòng thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân[10]. Thiên thần loan báo điều này cho ông Giuse: “Ông phải đặt tên con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Cũng chính điều đó được nói đến trong Thánh Thể, bí tích của Ơn cứu chuộc: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
- Việc giữ ngày Chúa nhật và cử hành bí tích Thánh Thể của Chúa là trung tâm của đời sống Hội Thánh. “Theo truyền thống tông đồ, mầu nhiệm Vượt Qua được cử hành trong ngày Chúa nhật, ngày đó phải được giữ như là ngày lễ buộc chính yếu trong Hội Thánh toàn cầu”[11].
“Và cũng phải giữ như là ngày lễ buộc chính yếu những ngày lễ Sinh Nhật Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, lễ Hiển Linh, lễ Thăng Thiên, lễ Mình và Máu Rất Thánh Đức Kitô, lễ thánh Maria Mẹ Thiên Chúa, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm và lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, lễ thánh Giuse, lễ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, và sau cùng là lễ các Thánh”[12].
Số 2214-2220: Bổn phận của con cái đối với cha mẹ
- 2214. Tình phụ tử thần linh là nguồn mạch của tình phụ tử nhân loại[13]; chính tình phụ tử đó đặt nền tảng cho việc tôn kính cha mẹ. Lòng tôn kính của con cái, còn nhỏ hay đã trưởng thành, đối với cha và mẹ mình[14] được nuôi dưỡng bằng tình cảm tự nhiên xuất phát từ mối dây kết hợp họ. Lòng tôn kính đó được đòi buộc bởi một điều răn của Thiên Chúa[15].
- Lòng tôn kính cha mẹ (lòng hiếu thảo) dựa trên sự biết ơnđối với những người, bằng việc trao ban sự sống, bằng tình yêu và công lao của mình, đã sinh ra các con cái mình, giúp chúng có khả năng lớn lên về tuổi tác, về sự khôn ngoan và ân sủng. “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng ?” (Hc 7,27-28).
- 2216. Lòng hiếu thảo được bày tỏ qua sự ngoan ngoãn và vâng phụcchân thành. “Hỡi con, lệnh cha con truyền, hãy lo tuân giữ; lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai… Những lời đó sẽ hướng dẫn con lúc con tới lui, sẽ giữ gìn con khi con nằm xuống, sẽ cùng con chuyện trò khi con thức dậy” (Cn 6,20-22). “Con khôn giữ lời cha nghiêm huấn, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời sửa dạy” (Cn 13,1).
- Bao lâu còn chung sống với cha mẹ, con cái phải tuân giữ mọi điều cha mẹ dạy liên quan đến lợi ích bản thân hoặc của gia đình. “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20)[16]. Con cái cũng phải vâng theo những lời dạy bảo hữu lý của những người giáo dục chúng, và của những người cha mẹ đã giao phó chúng cho họ chăm sóc. Nhưng nếu người con theo lương tâm, thấy vâng theo một lệnh truyền nào đó là làm điều xấu về mặt luân lý, thì không được vâng lời.
Khi trưởng thành, con cái vẫn phải tôn kính cha mẹ. Con cái phải biết đón trước những điều cha mẹ mong muốn, sẵn sàng hỏi ý kiến và đón nhận những lời khuyên bảo chính đáng của cha mẹ. Sự vâng lời của con cái đối với cha mẹ ngưng khi con cái không còn sống chung với cha mẹ nữa, nhưng lòng tôn kính thì không như thế, mà phải tồn tại luôn mãi. Thật ra, lòng tôn kính này có gốc rễ từ lòng kính sợ Thiên Chúa, là một trong các hồng ân của Chúa Thánh Thần.
- Điều răn thứ tư còn nhắc cho những người con, khi đã trưởng thành, nhớ các trách nhiệm của họ đối với cha mẹ. Con cái phải trợ giúp cho cha mẹ về vật chất và tinh thần, bao nhiêu có thể, trong những năm tháng của tuổi già, hoặc suốt thời gian bệnh tật, cô đơn hoặc túng thiếu. Chúa Giêsu nhắc lại bổn phận biết ơn này[17].
“Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (Hc 3,2-6).
“Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già, bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người… Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Chúa nguyền rủa” (Hc 3, 12-13.16).
- Lòng hiếu thảo củng cố sự hài hoà trong toàn bộ đời sống gia đình, ảnh hưởng cả đến các tương quan giữa anh chị em. Lòng hiếu thảo đối với cha mẹ làm rạng rỡ bầu khí gia đình. “Triều thiên của người già là đàn con cháu, vinh dự của con cái là chính người cha” (Cn 17,6). “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4,2).
- Các Kitô hữu còn phải biết ơn đặc biệt những ai đã giúp mình lãnh nhận hồng ân đức tin, ân sủng bí tích Rửa Tội và sự sống trong Hội Thánh. Những người này có thể là cha mẹ, những phần tử khác của gia đình, ông bà, các vị mục tử, các giáo lý viên, thầy cô giáo hay bạn bè. “Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lôít, bà ngoại anh, nơi bà Êunikê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (2 Tm 1,5).
Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thánh Giuse vâng lời sứ thần để nhận Chúa Giêsu là con của mình, nhờ thế Chúa Giêsu thuộc về dòng dõi vua Đa-vít. Thánh Giuse là người công chính vì Ngài luôn tôn trọng Thánh Ý Thiên Chúa và tôn trọng Đức Mẹ.
Cầu nguyện: Lạy Cha, con chúc tụng Cha vì Cha đã chọn cho Chúa Giêsu một người cha nuôi thánh thiện là thánh Giuse. Ngài thánh thiện vì ngài là người công chính sống đúng thân phận và vai trò của mình. Đối với Cha, ngài đã luôn tôn trọng Thánh ý nhiệm mầu và kế hoạch cứu độ. Dù hiểu hay không hiểu, ngài vẫn luôn sẵn sàng chờ đợi để thực hiện điều Cha muốn nơi ngài. Đối với Chúa Giêsu, ngài luôn tôn trọng và chu toàn trách nhiệm của người cha nuôi. Đối với Đức Mẹ, dù ngài không hiểu rõ điều đã xảy đến cho Đức Mẹ, nhưng ngài vẫn hết lòng tôn trọng và không muốn tố giác Đức Mẹ.
Lạy Cha, xin Cha giúp con noi gương thánh Giuse để sống cuộc đời công chính. Xin Cha cho con biết tôn trọng Cha để con thờ Cha cho phải đạo. Xin cho con biết tôn trọng mầu nhiệm Thánh Ý Cha để con tuân giữ và vâng phục, dù trí khôn hèn mọn của con chẳng thể hiểu thấu. Xin giúp con tôn trọng người khác, vì mỗi người là một mầu nhiệm mà chỉ mình Cha mới có quyền đi vào. Con cũng muốn tôn trọng cả thiên nhiên, vì Cha muốn con phải làm chủ vạn vật theo kế hoạch của Cha.
Trong đức tin, con nhận ra rằng cả một mầu nhiệm vĩ đại đang bao trùm cuộc sống con. Con chỉ biết chờ đợi Cha lên tiếng mời gọi và hướng dẫn, để con sống đúng thân phận và vai trò của con. Amen.
Ghi nhớ: “Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền”.
Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống…)
Trong bài trích Phúc Âm này, Thánh Matthêu kín đáo cho biết một số chi tiết quan trọng về Đức Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse và Chúa Giêsu:
- Về Đức Mẹ Maria: một số chi tiết chứng tỏ Maria là một Trinh nữ (do đó đứa con trong bụng Người không phải là con của Thánh Giuse):
– “Maria đính hôn với Giuse” (câu 18): Mt dùng chữ “đính hôn” chứ không phải “kết hôn”.
– “đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần” (câu 18); “vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (câu 20).
- Về Thánh Giuse: “Là người công chính” (câu 19): “công chính” có 2 nghĩa: a/ nghĩa thông thườnglà “công bình”, điều gì không phải của mình thì mình không nhận. Giuse biết thai nhi không phải của mình nên không dám nhận làm cha, do đó muốn bỏ đi; b/ nghĩa đạo đức: công chính là tuân theo ý Chúa. Khi được thiên sứ cho biết Thiên Chúa muốn Giuse rước mẹ con Đức Mẹ Maria về nhà mình thì Giuse mau mắn vâng theo.
- Về Chúa Giêsu: Ngài là một đứa con đặc biệt: “thụ thai “bởi phép Chúa Thánh Thần” (câu 18 và 20), “chính Ngài sẽ cứu dân mình khỏi tội” (câu 21).
B- Suy gẫm (… nẩy mầm)
Thánh Giuse nêu gương cho chúng ta về nhiều điểm:
- Một người luôn làm theo ý Chúa: theo khuynh hướng tự nhiên, việc tuân theo ý Chúa để nuôi dưỡng Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu là điều rất khó, vì Đức Mẹ Maria không phải là vợ Người đúng nghĩa, và Chúa Giêsu không phải là con ruột của Người. Nhưng Thánh Giuse đã nuôi dưỡng hai Đấng, không phải một cách miễn cưỡng mà hết sức chu đáo.
- Một ngươi chu toàn nhiệm vụ cách âm thầm: Trong các sách Phúc Âm, chúng ta không nghe Thánh Giuse nói một lời nào, cũng không thấy Giuse được vinh dự gì nổi bật. Lời nói của Người là làm bổn phận, vinh dự của Người là chu toàn bổn phận, niềm vui của Người cũng là chu toàn bổn phận.
- Giáo Hội coi Thánh Giuse là “Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh”. Người đã giữ gìn Đức Mẹ Maria. Người cũng sẵn sàng giữ gìn những người tận hiến đời mình cho Chúa.
- Có một người làm công, ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một đoàn người lên rừng chơi, thấy người quét lá, họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000 đồng một tháng.
Sau một hồi vãn cảnh, đoàn người trở về. Một số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.
Ngay giữa thành phố có một cái hồ rộng lớn, nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người ca tụng nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng sau ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không còn thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh… Cả thành phố trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp bất thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân: do người phu quét lá rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung trên mặt đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm…
Và ngay hôm đó họ tái dụng người phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa. (Trích “Phúc”)
- ”Này ông Giuse là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20)
- Học xa…
Mỗi lần tôi về nhà, đám em tôi lại ùa ra tíu tít, mẹ thì hỏi dồn dập khiến tôi không kịp trả lời. Riêng ba chỉ lặng lẽ nhìn tôi, với ánh mắt ấm áp một nụ cười.
Cuộc đời ba là những tháng ngày âm thầm làm việc nuôi chúng tôi khôn lớn. Ba là bệ phóng vững chãi cho chúng tôi vào đời. Mỗi đứa con cứ thế lấn lượt đi lên từ bệ phóng ấy.
Lạy Thánh Giuse, ngày xưa Ngài đã sống một đời âm thầm cho Chúa Giêsu được lớn lên. Xin dạy con biết sống vì và sống cho người khác (Hosanna)
Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Lễ thánh Giuse, Bạn Đức Trinh Nữ (Mt 16.18-21.24a)
Kinh thánh đã xác nhận thánh Giuse “là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Khi gọi Giuse là người công chính, và nhìn vào cuộc sống của Ngài, chúng ta có thể hiểu được nội dung của từ công chính ấy.
- Theo nghĩa thông thường: từ “công chính” có nghĩa là “công bình”, nghĩa là trả lại cho người khác những gì thuộc về họ. Nói khác đi, công chính là không dám nhận những gì không phải là của mình. Thánh Giuse định trốn đi khi biết Đức Maria đã mang thai.
Theo lời giải thích xưa kia thì thánh Giuse trốn đi vì nghi ngờ Đức Maria bất trung. Nhưng theo các nhà chú giải mới thì thánh Giuse định bỏ trốn, vì thấy mình không xứng đáng với danh hiệu làm Cha Đấng Cứu Thế. Chức vị làm Cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá cao trọng, thánh Giuse thấy mình không phải là Cha Đấng Cứu Thế, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế, nên Ngài bỏ trốn.
- Theo nghĩa đạo đức: trước sự kiện Đức Maria thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, mặc dù không hiểu và định tâm rút lui trong âm thầm, để thực hiện kế “đào vi thượng sách” khôn ngoan, nhưng một khi đã được mạc khải cho biết sứ mạng “Cha nuôi” của mình thì Giuse đã mau mắn rước mẹ con Đức Maria về nhà mình.
Nhiệm vụ của thánh Giuse là gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó và Ngài đã hết sức chu toàn. Chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Chu toàn với sự tinh tế, kính cẩn, nâng niu. Hãy nhìn cảnh Thánh gia trốn sang Ai cập, Đức Maria bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa đi trong đêm tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp hơn. Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh Giuse kính cẩn nâng niu Đức Maria và Đức Giêsu. Ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hy sinh không ngại gian khổ. Đang đêm mà Chúa báo thức dậy trốn sang Ai cập, Ngài cũng thức dậy lên đường tức khắc.
- Ngài là một gia trưởng: thánh Giuse được Chúa trao cho nhiệm vụ coi sóc Đức Giêsu và Đức Maria, gìn giữ gia đình, Ngài đã hết sức chu toàn trong mọi hoàn cảnh trong lúc thuận tiện cũng như trong hoàn cảnh khó khăn.Theo pháp lý, thánh Giuse là Bạn trăm năm của Đức Maria, Ngài là chồng thực sự, mặc dầu không ăn ở với nhau. Ngài cũng phải là Cha của Đức Giêsu mặc dù chỉ là cha nuôi. Cả ba vị đã làm thành một gia đình thực thụ. Người ta thường nói: “Kim chỉ phải có đầu” (Tục ngữ), như vậy trong gia đình Nazareth thì đương nhiên thánh Giuse phải là gia trưởng, và Đức Maria và Đức Giêsu phải vâng lời Ngài với tư cách Ngài là gia trưởng.
Người cha là mái hiên che chắn cho gia đình trước bao giông tố của cuộc đời. Người cha chấp nhận những gian khổ cuộc đời để nuôi dưỡng gia đình.
- Ngài là người cộng tác âm thầm trong công cuộc cứu thế, với vai trò thật mờ nhạt. Kinh Thánh chỉ nhắc đến Ngài với tư cách là một bác thợ mộc ở Nazareth và là cha của ông Giêsu, thế thôi, rồi Ngài rút vào bóng tối không ai biết đến nữa. Nhưng công dưỡng dục vào bảo vệ thánh gia, được thánh tiến sĩ Bênađô ghi nhận: “Thiên Chúa Cha chọn thánh Giuse không những để làm người an ủi Đức Maria khi gặp gian truân và để làm Cha nuôi Chúa Con mà còn để thánh nhân cộng tác vào công trình của Chúa Cứu Thế là công việc chung cả Ba Ngôi Thiên Chúa”.
- Ngài là đầy tớ trung thành: nếu ơn gọi phát xuất từ sáng kiến của Thiên Chúa và nỗ lực của bản thân để đáp trả lời mời gọi, thì qua bài Tin mừng hôm nay, chiêm ngưỡng thánh Giuse trong dáng dấp “người công chính” cũng cho thấy Thánh Giuse là tôi tớ trung tín một đời, sẵn sàng vâng nghe tiếng gọi và mau mắn thi hành, như một đầy tớ vô dụng, tất cả đều cậy nhờ vào Thiên Chúa (Lc 17,10), sẵn sàng bỏ ý riêng làm theo ý Chúa để cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.
- Ngài có thần thế trước toà Chúa: ngày xưa vua Pharaon nói với dân chúng: “Ite ad Joseph”: hãy đến cùng Giuse, tiên báo Giuse ngày nay: không phải chỉ ban phát gạo thóc mà là muôn ơn. Thánh Giuse có thần thế trước mặt Chúa. Cảm nghiệm điều đó, thánh nữ Têrêsa Avila đã nói: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý, ngài giúp chúng ta trong mọi trường hợp”.
Suy niệm (Tâm Bùi chuyển ngữ từ Vatican News)
Lễ Trọng Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh nữ Maria
Ở phương Tây, tài liệu tham khảo lâu đời nhất về việc tôn kính Thánh Giuse (Ioseph sponsus Mariae) liên quan đến ngày 19 tháng 3 xuất hiện vào khoảng năm 800 tại miền Bắc nước Pháp. Sau đó, từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 14, các tài liệu đề cập đến Thánh Giuse, bạn trăm năm của Đức Maria, ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Vào thế kỷ 12, quân thập tự chinh đã xây dựng một nhà thờ để tôn vinh ngài tại Nazareth. Nhưng phải đến thế kỷ 15, việc tôn kính Thánh Giuse mới lan rộng nhờ ảnh hưởng của Thánh Bernađinô thành Siêna, và đặc biệt là cha Jean Gerson (+1420), Chưởng ấn Nhà thờ Đức Bà Paris, người đã thúc đẩy việc thiết lập chính thức một lễ kính Thánh Giuse. Trước đó, tại Milan trong các cộng đoàn Dòng Augustinô, cũng như nhiều nơi ở Đức, đã cử hành những thánh lễ kính ngài. Phải đến năm 1480, với sự phê chuẩn của Đức Giáo hoàng Sixtus IV, lễ kính Thánh Giuse mới bắt đầu được cử hành vào ngày 19 tháng 3. Đến năm 1621, lễ này trở thành lễ buộc với sắc lệnh của Đức Giáo hoàng Grêgôriô XV. Năm 1870, Đức Giáo hoàng Piô IX tuyên bố Thánh Giuse là Đấng Bảo trợ Giáo hội Hoàn vũ, và Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã thêm tên của ngài vào Lễ quy Rôma của Thánh lễ vào năm 1962. Gần đây, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã phê chuẩn thêm bảy lời cầu mới trong Kinh Cầu Thánh Giuse, bao gồm: Đấng gìn giữ Chúa Cứu Thế, luôn ân cần phục vụ Chúa Kitô, cộng tác vào công cuộc cứu độ loài người, nơi nương tựa lúc gặp nguy nan, Đấng Bảo trợ kẻ lưu đày, Đấng Bảo trợ người sầu khổ và Đấng Bảo trợ kẻ túng nghèo.
Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô. Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Mt 1,16. 18-21. 24)
Phụng vụ cũng đề xuất đoạn Luca 2,41-51.
Người cha yêu dấu
Thánh Giuse đã dấn thân phục vụ cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Ngài chăm sóc Thánh Gia mà Thiên Chúa đã trao phó cho ngài. Từ khoảnh khắc truyền tin, ngài trở thành người tôi trung tận tụy, một người tôi tớ quan phòng khi chăm sóc Đức Maria và Hài Nhi mà Mẹ cưu mang trong cung lòng. Ngài bảo vệ Thánh Gia trong những lúc nguy nan. Đây chỉ là một vài trong số những đức tính của Thánh Giuse, giúp giải thích lý do tại sao Dân Chúa đặc biệt sùng kính ngài.
Người cha dịu dàng và yêu thương
Thánh Giuse đã dạy Chúa Giêsu cách bước đi bằng cách nắm tay Người. Chúa Giêsu nhận ra sự dịu dàng của Thiên Chúa nơi Thánh Giuse, Người Công chính. Nơi Thánh Giuse, Chúa Giêsu nhìn thấy hình ảnh một người đầy đức tin, biết cách nhìn cuộc đời với niềm hy vọng, bởi giữa cơn bão tố, Chúa vẫn luôn vững tay lèo lái hành trình của cuộc sống.
Người cha vâng phục
Kế hoạch của Thiên Chúa đã được mặc khải cho Thánh Giuse qua những giấc mơ. Ngài luôn đáp lại cách mau mắn: trong biến cố Truyền Tin, khi vua Hêrôđê tìm cách sát hại Hài Nhi, và cả khi vua Hêrôđê băng hà. Thánh Giuse được Thiên Chúa hướng dẫn và ngài luôn vâng phục. Chúa Giêsu đã học được sự “vâng phục làm con” đối với Thiên Chúa nơi Thánh Giuse. Người đã học sự vâng phục từ cha mẹ mình.
Người cha biết đón nhận
Thánh Giuse được miêu tả như một người tôn trọng và nhạy bén, biết đặt phẩm giá và sự sống của Đức Maria lên trên tất cả, ngay cả danh dự của chính mình. Thánh Giuse đón nhận, tin chắc rằng mọi sự đều được Thiên Chúa quan phòng hướng dẫn. Ngài hiểu rằng cuộc sống được tỏ lộ theo mức độ mà con người chấp nhận kế hoạch của Thiên Chúa, và hòa hợp với kế hoạch ấy. Đây chính là tính hiện thực Kitô giáo: biết đón nhận Thiên Chúa trong lịch sử đời mình, và học cách đón nhận mọi người mà ta gặp gỡ.
Người cha sáng tạo và can đảm
Đối mặt với khó khăn, Thánh Giuse luôn khơi dậy những nguồn lực bất ngờ nhất. Ngài là người mà qua đó Thiên Chúa biểu lộ sự chăm sóc quan phòng ngay từ khởi đầu lịch sử cứu độ. Những thử thách không bao giờ làm cản bước lòng can đảm và kiên trì của người công chính và khôn ngoan này, người mà Thiên Chúa đã tin tưởng, cũng như Ngài đã tin tưởng vào Đức Maria. Chính nhờ đó, ta nhận ra nơi Thánh Giuse hình ảnh Đấng Bảo trợ Thánh Gia: trước hết là gia đình của ngài ở Nazareth, và ngày nay là Hội Thánh.
Người cha lao động
Công việc, được hiểu như sự tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, là điều mà Thánh Giuse đã thực hiện trong đời mình và đã dạy cho Chúa Giêsu. Công việc mang một ý nghĩa quan trọng để tạo ra một “bình thường mới,” nơi không ai bị loại trừ. Công việc của Thánh Giuse nhắc nhớ rằng Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, không coi thường lao động tay chân. Công việc bảo đảm phẩm giá con người.
Người cha trong âm thầm
Là một người cha, Thánh Giuse đã giới thiệu Con Thiên Chúa với những kinh nghiệm và thực tại của cuộc sống: không ràng buộc Người, không kìm hãm, không sở hữu, nhưng phát triển khả năng lựa chọn và tự do của Người, cuối cùng để Người rời khỏi nha. Lý lẽ của tình yêu luôn là lý lẽ của tự do: niềm vui của Thánh Giuse là hiến dâng chính mình. Ngài trở nên lu mờ, để vào một thời điểm, lùi bước, nhường chỗ cho Con mình tỏa sáng.
Lời nguyện
Kính chào Đấng Gìn giữ Đấng Cứu Thế,
Bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria.
Chúa đã trao Con Một của Chúa cho ngài;
Mẹ Maria đã tin tưởng vào ngài;
Chúa Kitô đã lớn lên thành người cùng với ngài.
Lạy Thánh Giuse diễm phúc,
xin cũng hãy tỏ ra ngài là cha của chúng con
và hướng dẫn chúng con đi trên đường đời.
Xin giúp chúng con đón nhận ân sủng,
lòng thương xót và lòng can đảm,
và xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ. Amen.
(Lời nguyện từ Tông thư Patris Corde của Đức Giáo hoàng Phanxi