Chúa nhật 33 Thường niên năm A – Kính trọng thể các thánh Tử đạo Việt Nam (Mt 10,17-22)

“Vì danh Thầy,
các con sẽ bị mọi người ghen ghét,
nhưng ai bền đỗ đến cùng,
kẻ ấy sẽ được cứu độ”.
(Mt 10,22)

BÀI ĐỌC I: Kn 3, 1-9

“Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu”.

Trích sách Khôn Ngoan.

Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Đối với con mắt của người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình, lòng trông cậy của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao; vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.

Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu toả ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.

Đó là Lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 30, 3cd-4. 6ab và 8a. 17 và 21ab

Đáp: Lạy Chúa, con phó thác tâm hồn trong tay Chúa (c. 6a).

1) Xin Chúa trở thành núi đá cho con trú ẩn, thành chiến luỹ kiên cố để cứu độ con. Bởi Chúa là Đá Tảng, là chiến luỹ của con, vì uy danh Ngài, Ngài sẽ dìu dắt và hướng dẫn con. – Đáp.

2) Con phó thác tâm hồn trong tay Chúa, lạy Chúa. Lạy Thiên Chúa trung thành, xin cứu chữa con. Con sẽ hân hoan mừng rỡ vì đức từ bi của Chúa. – Đáp.

3) Xin cho tôi tớ Chúa được thấy long nhan dịu hiền, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa. Chúa che chở họ dưới bóng long nhan Ngài cho khỏi người ta âm mưu làm hại. – Đáp.

4) Xin Chúa tỏ mặt nhân lành với tôi tớ Chúa, và lấy lòng thương xót Chúa cứu thoát con. Chúa che chở những ai nấp dưới nhan thánh Chúa khỏi mưu chước của loài người. Chúa giấu họ trong nhà Chúa, khỏi miệng lưỡi gian ngoa. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Cv 7, 55-60

“Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.”

Bài trích sách Công vụ Tông đồ.

Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giê-su đứng bên hữu Thiên Chúa.

Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.”

Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô.

Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con.”

Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi, ông an nghỉ.

Đó là lời Chúa.

Tin mừng: Mt 10,17-22

17 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. 18 Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. 19 Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì.

Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: 20 vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. 21 Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.

22 Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ”.


Bài giảng của Lm. Ignatio Hồ Văn Xuân

1. Suy niệm (TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong cuộc đời các Kitô hữu. Đặc biệt trong những lúc gặp thử thách, người tín hữu luôn có Thánh Thần hỗ trợ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, lời tiên báo về những cuộc bắt bớ vẫn còn ứng nghiệm qua các thời đại. Sống ở bất cứ thời đại nào, người tín hữu luôn liên lụy với Thập giá của Chúa, cùng chung số phận với Chúa là Đấng treo trên thập giá. Ngày nay con cũng đang được Chúa mời gọi sống cuộc đời tử đạo.

Lạy Chúa, muốn sống “tử đạo”, con cần can đảm chọn lựa: chọn lựa giữa một mất một còn, giữa trung thành và phản bội, giữa sự sống và sự chết, giữa Thiên Chúa và người đời. Con cần chọn lựa dứt khoát để làm chứng cho Chúa. Con cần làm chứng cho niềm tin và lòng mến bằng những sự hy sinh từ bỏ mình, bằng những khổ đau phải chịu, bằng đời sống gian nan vất vả… Con tin chắc con sẽ thực hiện được điều ấy, vì Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời con. Chúa sẽ soi sáng cho con phải nói điều gì. Chúa sẽ hướng dẫn con cần làm việc chi.

Lạy Chúa, tên tuổi 117 thánh Tử Đạo Việt Nam đã được ghi vào lịch sử Giáo Hội. Nhưng còn một số đông vô kể, cả chính con, là những tín hữu không tên tuổi đang dấn thân trong cuộc sống chọn lựa. Xin Chúa ban thêm cho con sức mạnh và lòng can đảm cương quyết, để con dám sống bằng những cử chỉ anh hùng, dám tỏ thái độ dứt khoát khi chọn lựa đứng về phía Chúa. Vì khi con sống điều Chúa dạy, khi con dám thực hiện lề luật Chúa, tức là con đang tử đạo hằng ngày, và đang trở thành chứng nhân cho Chúa giữa thế giới hôm nay. Xin Chúa giúp con. Amen.

Ghi nhớ: “Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết”.

 

2. Suy niệm (Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống…)

Dụ ngôn các nén bạc:

– Thiên Chúa trao cho mỗi người số nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít.

– Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người xử dụng những nén bạc đó. Bởi thế người đã lãnh 5 nén và người đã lãnh 2 nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ”.

– Cách xử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lời. Làm cho chúng sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ: người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.

B. Suy niệm (…nẩy mầm)

1. 3 người đầy tớ trong dụ ngôn này không hề so đo phân bì với nhau vì tại sao kẻ thì được nhiều kẻ thì được ít. Họ chỉ khác nhau ở tấm lòng đối với chủ.

Tôi cũng đừng so đo với người khác về những khả năng Chúa ban cho tôi; kiêu căng đối với kẻ ít khả năng và đố kỵ đối với kẻ nhiều khả năng hơn mình. Tôi chỉ nên nghĩ tới Chúa thôi: Chúa mong chờ gì nơi tôi khi trao cho tôi những khả năng đó ?

2. Người đầy tớ thứ ba có nhiều điểm xấu: ít khả năng, lại không lo phát triển những khả năng ít ỏi đó, mà còn trách chủ keo kiệt. Hình phạt của hắn là một lời cảnh giác cho tôi.

3. “Người có sẽ được cho thêm và sẽ được dư dật”: Lời hứa này là một sự khuyến khích rất lớn cho tôi. “Có” gì và “được cho thêm” gì ? Thưa: cầu nguyện, tinh thần kết hợp với Chúa, sức sống thần linh của Chúa, ơn Chúa v.v.

4. Chúng ta cũng có thể hiểu nén bạc là đức tin. Đức tin được ban cho chúng ta một cách nhưng không, nhưng không bởi vì chúng ta có được đức tin mà không do bất cứ công lao nào của chúng ta. Một niềm tin được chia sẻ là một niềm tin sống động, trái lại một niềm tin chôn cất sẽ là một niềm tin bị mai một và chết dần. (Chờ đợi Chúa)

5. Ông chủ nói với người đầy tớ: “Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (Mt 25,23)

Sau khi đến thăm gia đình của người bạn học vừa mất, cô bé trở về nhà.

Vẻ mặt giận dữ, cha cô bé hỏi:

“Tại sao con đến nhà người ta vào lúc này ?”

Cô bé trả lời: “Con đến để an ủi mẹ bạn ấy”.

– Nhưng con thì làm được gì ?

– Ba ơi con chẳng làm được gì, vì thế con ngồi vào lòng mẹ bạn ấy.

Lúc đó, cô bé chỉ biết khóc, nhưng đã an ủi lòng “người mẹ”.

Và tôi, trong cuộc sống, tôi cũng biết cười

để trao tặng “nụ cười hồng” cho mọi người.

Một miếng trầu tôi tiêm cho ngoại

Tách cá phê tôi pha cho bố mỗi sáng

Một chiếc áo dài tôi thêu cho mẹ

Và chiếc nơ hồng bắt bím cho chị

những bài học hay tôi mang đến với trẻ thơ

Tôi đã làm tất cả với hết khả năng và nhiệt huyết của mình.

Tôi vui vì đã góp phần tô điểm cho cuộc sống thêm hương vị.

Cầu nguyện: Lạy Chúa! Xin giúp con biết sinh lợi những nén bạc Chúa trao, biết trung thành với bổn phận hằng ngày. (Hosanna)

 

3. Suy niệm (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

CHỨNG NHÂN ANH DŨNG

*******

I. LỄ KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.

 Hôm nay toàn thể Giáo hội Công giáo Việt Nam long trọng mừng kính các Thánh Tử đạo Việt Nam, một ngày lễ đem lại niềm vui và một hào khí thúc đẩy người tín hữu Việt Nam theo gương các thánh mà làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày.

 Theo sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc trên quê hương đất nước chúng ta với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ Inikhu vào năm 1533. Công cuộc truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo của Chân phước Anrê Phú Yên vào năm 1544. Từ đây Giáo hội Việt Nam phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có lúc đẫm máu, qua các thời đại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt với nhóm Văn Thân.

 Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt Nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa. Chúng ta hãy xem một số hình phạt man rợ và bất công đó:

 – Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có 1 vị.

 – Lăng trì: chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.

 – Thiêu sinh: bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.

 – Xử trảm: bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.

 – Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.

 – Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.

 Cũng nên biết qua về kế hoạch Phân sáp của vua Tự Đức, một kế hoạch quá sâu độc! Nhưng cũng để cho chúng ta biết rằng trong mọi biến cố lúc nào cũng có bàn tay quan phòng của Chúa, sự khôn ngoan của loài người chỉ là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa. Kế hoạch Phân sáp được vua Tự Đức cho thi hành vào năm 1851 và 1856. Do sự thi hành kế hoạch Phân sáp này mà gần 400.000 giáo dân phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết nơi phân sáp, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 Linh mục Việt Nam và 10 giáo sĩ ngoại quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác,100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì đạo.

 Kế hoạch phân sáp gồm bốn mặt:

– Mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương.

– Mặt thứ hai, mỗi người công giáo phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật.

– Mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá huỷ, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà nước.

– Mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công giáo thì phải để cho gia đình người lương nuôi.

 Đây là một kế hoạch rất sâu độc, nhằm tiêu diệt Giáo hội VN tận gốc rễ. Nhưng bàn tay Chúa dẫn đưa lạ lùng: các triều đại nhà Nguyễn không còn nữa, mà Giáo hội Việt Nam, hiện nay, vẫn mạnh và vươn lên.

 Có nhiều lý do dẫn đến cảnh bách hại: vì ghen tương đố kỵ, hiểu lầm hay do những nguyên nhân chính trị. Trong vòng 300 năm, Hội thánh Việt Nam đã dâng cho Chúa một số chứng nhân anh dũng, đã nhận lấy cái chết để làm chứng và tỏ lòng trung thành với Chúa Kitô. Con số thực sự của các tử đạo tại Việt Nam cũng không có được thống kê chính xác, chỉ biết rằng con số này rất đông, từ 100.000 đến 130.000 người. Các tử đạo tại Việt Nam cũng rất đa dạng, gồm đủ mọi thành phần trong dân Chúa và ngành nghề xã hội: các Giám mục, Linh mục, Linh mục thừa sai Pháp và Tây Ban Nha, bên cạnh các Linh mục là chủng sinh, thầy giảng và giáo dân, có những cụ già và thanh niên, binh lính, thầy thuốc, quan chức….

 Giáo hội tuy còn non nớt, còn đang trên đà truyền giáo, nhưng ngày 19.06.1988 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 chứng nhân anh dũng và đưa vào niên lịch chung để mừng kính trong toàn thể Giáo hội vào ngày 24 tháng 11 hằng năm là ngày kỷ niệm thành lập hàng giáo phẩm tại Việt Nam vào năm 1960.

II. Ý NGHĨA VIỆC TỬ ĐẠO

 Xưa nay có lẽ chúng ta đã quen đi với cách thức phân biệt các thánh tử đạo với các thánh giáo phụ, hiển tu, đồng trinh vv… Nhưng chúng ta quên rằng thánh nào cũng là thánh, và thánh nhân Kitô giáo nào cũng trước tiên phải là chứng nhân của Tin mừng, hay nói cách khác, chứng nhân của Chúa Kitô, chỉ khác nhau cách thức làm chứng mà thôi.

 Sự thực là buổi sơ khai của Giáo hội Công giáo trước tiên những tín hữu chết vì đạo được tôn vinh là thánh và Giáo hội dùng một từ Hy lạp là Martus, Marturos (rồi La tinh Martyr, Martyris và từ Pháp là Martyr) để chỉ những tín hữu được tôn vinh này. Martus, Martyr có nghĩa là người chứng, người làm chứng. Vì vậy, đối với Giáo hội công giáo, thì từ Martys này nguyên thủy được áp dụng cho tất cả các thánh, do đó mà sổ các thánh được gọi là Martyrologie.

 Vậy thì vị tử đạo, trước tiên phải là chứng nhân của Chúa Kitô, như mọi chứng nhân khác, trên bình diện đời sống. Cái chết “vì đạo” của người tử đạo chỉ là một cách thức làm chứng mà thôi, chứ không phải làm thay đổi bản chất người chứng của Chúa Kitô. (Lm. Thiện Cẩm, Cg và Dt, Giáng sinh 1997, tr 310-311)

 Nếu tử đạo do tiếng Martyr là nhân chứng thì ngay cộng đồng Do thái đã có những vị tử đạo nhất là thời Maccabê. Sách Maccabê, đặc biệt bài đọc I hôm nay, đã kể lại nhiều vị anh hùng can trường làm chứng cho đức tin mặc dù phải chịu nhiều cực hình và có khi phải chết. Còn cách sử dụng thông thường của Cựu truyền Công giáo thì danh từ Tử đạo áp dụng cho nhân chứng nào đã lấy máu mình, đã hiến mạng sống mình để trung thành làm chứng cho sứ mạng, cho chân lý.

 Theo nghĩa này thì Đức Kitô chính là một vị tử đạo đích thực. Và chỉ duy có Ngài mới xứng đáng danh hiệu đáng kính này. Trong cuộc sống của Ngài tại trần thế và nhất là trong cái chết đẫm máu của Ngài trên thập giá, Ngài đã làm chứng hùng hồn về lòng trung thành của Ngài đối với sứ mạng Cha Ngài giao phó. Ngài không những đã biết trước cái chết, mà Ngài còn tự ý chấp nhận như một tác động tôn kính hoàn hảo nhất mà Ngài đã thực hiện để tôn kính Cha Ngài. Và khi Ngài bị kết án, Ngài đã tuyên bố: “Ta đến trong trần gian này để làm chứng cho sự thật”. Như thế chúng ta đủ hiểu cuộc sống Ngài tại thế và cái chết của Ngài chính là những tác động mang ý nghĩa tử đạo: đó là hiến mạng sống, để trung thành làm chứng cho sứ mạng Cha Ngài trao phó và làm chứng cho sự thật.

 Kinh nghiệm cho biết Giáo hội của Chúa bao giờ cũng được khai sinh và phát triển bằng đau khổ và tử đạo. Thật vậy, chính Chúa Kitô là vị tử đạo đầu tiên, đã khai sinh Giáo hội bằng cái chết đau thương trên thập giá. Chúa phán: “Khi nào Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự về với Ta” (Ga 12,22). Từ ngày đó, Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô cũng phải đổ máu làm chứng về Chúa, để mọi người được ơn cứu chuộc. Giáo hội sở khai với cuộc tử đạo của thánh Stêphanô. Giáo hội Rôma với bao thánh tử đạo dưới thời hoàng đế Néron nay vẫn còn di tích lưu truyền.

 Hoàng đế Julius, người ngược đãi Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4, đã phải thốt lên: “Các ngươi đắp xác của nhiều người mới chết lên một cái xác đã chết (Chúa Giêsu), các ngươi làm đầy thế giới này bằng quan tài và mồ mả”.

 Cuối cùng, nhiều Giáo hội đã được dựng nên trên mồ của các thánh Tử đạo, đền thờ thánh Phêrô ở Vatican là một thí dụ, và các nghĩa địa đã biến thành các thành phố bởi vì “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertullianô).

 Tại sao người ta dám tử đạo, dám làm chứng cho Tin mừng, dám làm chứng cho Chúa ? Thưa vì người ta quí sự sống đời đời. Người ta cho phần rỗi linh hồn là quí hoá và không gì có thể đổi lầy được vì: “Được lợi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì” (Mc 8,36).

Truyện: Xin mua được một linh hồn

 Thế kỷ 19, khi cơn cấm đạo nổi mạnh trên tỉnh Thanh Hoá. Một hôm, người ta dẫn đến trước mặt quan án một thiếu niên 17 tuổi – tên là Mới – Thấy mặt mũi khôi ngô tuấn tú, quan động lòng thương.

 – Mới – quan nói – con cứ đạp thánh giá đi, rồi ta sẽ ban thưởng một nén bạc.

 – Bẩm quan lớn, một nén bạc chưa là gì.

 – Được, ta sẽ ban một nén vàng. Con hãy đạp thánh giá đi.

 – Ồ, bẩm quan lớn, một nén vàng cũng vẫn còn ít quá.

 – Sao ? Quan sửng sốt, quát: Thế còn chưa đủ ư ? Vậy mày muốn bao nhiêu ?

 – Bẩm, nếu quan lớn muốn tôi đạp thánh giá, thì xin quan lớn hãy cho tôi cái gì có thể mua được một linh hồn khác đã…

 Và người thiếu niên bình tĩnh bước vào pháp trường, vẻ anh dũng tươi cười.

III. VIỆC TỬ ĐẠO NGÀY NAY

1. Theo công đồng Vatican II

 Trong hiến chế Lumen Gentium, Công đồng chỉ dùng chữ Tử đạo 6 lần và theo một ý nghĩa riêng biệt, với chiều kích rộng lớn phổ quát, tuy vẫn qui chiếu vào ý niệm tử đạo có từ trước. Theo công đồng, tử đạo là được đồng hoá với Thầy mình, sẵn sàng chết để cứu độ trần gian, và cũng như Thầy, đổ máu đào ra để làm chứng cho việc đó. Hội thánh coi tử đạo là ơn cao cả, là bằng chứng tột đỉnh về đức tin. Chẳng mấy ai được phúc này, nhưng ai ai cũng phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt thế gian, và theo Người trên con đường thập giá, giữa những cơn bắt bớ thường xảy ra cho Hột thánh (LG. số 42).

 Một số nhà thần học ngày nay cũng có những suy nghĩ và gợi ý như cha Karl Rahner trong cuốn Excursus sur le martyr: “Tử đạo đơn thuần là cái chết của người Kitô hữu. Tử đạo là một phần cốt yếu của Hội thánh. Thật ra, Hội thánh không nguyên làm chứng cho Đức Kitô bị đóng đinh, mà còn làm chứng cho Lời mình sống thành hiện thực nữa. Hội thánh sống cái chết của Chúa Kitô trong hết mọi người, mang thập giá của Đức Kitô ở giữa bóng tối của thế gian và mang dấu thánh của Đức Kitô, những dấu ấn bí ẩn trong đời thường mỗi ngày. Hội thánh phải là dấu hiệu thiêng thánh về thực tại thầm kín này, trong thế giới ngày nay. Hội thánh ở trong tình trạng tử đạo. Ở đây, Hội thánh tự tạo cho mình một hình thức rõ ràng nhất, trong sáng nhất, một mạc khải tồn tại cho đến cùng”.

 Nhà thần học Urs von Balthasar cũng nói giống như vậy, khi nhấn mạnh rằng tình trạng bách hại là tình trạng thông thường của Hội thánh trong thế gian và tử đạo là trạng thái bình thường của lời chứng Kitô giáo.

 Étienne Barbarin cũng theo một dòng tư tưởng, khi trình bày việc tử đạo là cách thế thực hiện hoàn hảo nhất lời chứng, vì cái chết tuy được chuẩn bị bằng cả đời sống, nhưng đã bắt đầu và thực hiện trong mỗi lựa chọn hằng ngày.

2. Tư tưởng chung thời nay

 Nếu như các nhà thần học nói: “Hội thánh luôn ở trong tình trạng tử đạo”. Ta phải hiểu như thế nào ? Phải chăng Hội thánh lúc nào cũng phải chịu bắt bớ, bị đoạ đầy ? Chắc không phải thế. Cần phải hiểu chữ “Tử đạo” theo nghĩa rộng hơn. Ta đặt câu hỏi: bậc đồng trinh và đời đan tu có thể thay thế cho tử đạo không ?

 Ngay từ xưa người ta đã tìm những cách thế biểu hiện việc tử đạo. Những cách thế này xoay quanh những việc đời có thể diễn tả sự hy sinh chính mình, và đức tin hoàn hảo, do đấy có thể được coi như một sự sửa soạn chịu tử đạo hay có liên quan đến tử đạo. Vì thế bậc đồng trinh và đời đan tu vẫn được coi là những con đường gần nhất với tử đạo. Các trinh nữ và các đan nữ xuất hiện vào thời cấm đạo hồi xưa, dưới mắt mọi người, vẫn là những vị kế thừa các anh hùng tử đạo. Từ đó nảy sinh ra ba mẫu tử đạo:

 * Tử đạo đỏ: là đổ máu ra chịu chết vì Chúa.

 * Tử đạo trắng: sống đời hãm mình trinh tiết.

 * Tử đạo xanh: chịu đọa đầy, để làm chứng cho đạo ở một nơi không phải là quê hương xứ sở mình.

 Chính thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói thẳng thắn rằng: “Tôi cảm thấy tôi có ơn gọi làm chiến binh, tông đồ, tiến sĩ và tử đạo. Tử đạo là giấc mơ trong tuổi trẻ của tôi. Và giấc mơ ấy đã trở thành mãnh liệt, khi tôi ở trong bốn bức tường của Nhà kín. Nhưng tôi cảm thấy rằng giấc mơ đó là một sự điên rồ và vì thế tôi đã hiểu tình yêu qui tụ mọi ơn gọi của tôi. Vâng, cuối cùng tôi đã khám phá ra ơn gọi của tôi: ơn gọi của tôi là yêu mến” (Tự thuật).

 Mọi người đều quí trọng sự sống, dù chỉ là cuộc sống vắn vỏi phù du. Các tử đạo không những coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, mà còn lấy cái chết như ngưỡng cửa phải bước qua, để tiến vào cõi sống vĩnh hằng. Các ngài cho ta cái cảm giác như là các ngài “chạm vào cõi vô hình”. Các ngài đã thể hiện và chứng minh câu nói của Chúa: “Ai bám vào sự sống đời này, sẽ mất cuộc sống mai sau…” (x. Mc 8,35). Và như thánh Phaolô nói: “Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực luôn vui vẻ” (2 Cr 6,9-10).

Truyện: Chết theo lệnh vua

 Trên bước đường viễn chinh, đại đế Alexandre đã cho quân vây hãm kinh đô của một vương quốc vùng Tiểu Á. Thay vì cho quân tấn công hạ thành, đại đế đã thúc ngựa đến ngay trước cổng thành và đòi gặp mặt vua đối phương. Nhà vua leo lên lũy thành, nhìn xuống đoàn quân đang vây hãm và hỏi Alexandre:

 – Nhà ngươi muốn gì ?

 – Ta muốn nhà vua đầu hàng.

 – Đầu hàng ? Tường ta cao, hào ta sâu, quân ta đông hơn, tại sao ta lại phải đầu hàng nhà ngươi ?

 – Nhà ngươi hãy xem cho rõ.

 Thế rồi Alexandre ra lệnh binh sĩ dàn trận. Thay vì tấn công hạ thành, ông ra lệnh cho họ tiến bước về hướng vực thẳm ngoài thành.

 Tò mò, quân sĩ trong thành cũng leo cả lên tường thành để xem cuộc “diễn binh” của Alexandre.

 Đoàn quân của Alexandre cứ từ từ tiến bước đến bờ vực thẳm. Hiên ngang, anh dũng, họ tiến tới bờ vực thẳm. Một người bước vào khoảng không, rơi xuống vực thẳm, thịt nát xương tan. Người thứ hai vẫn can đảm tiếp bước, rơi xuống vực sâu, chết theo. Từng người, từng người theo nhau đi vào cái chết một cách bình thản, anh hùng. Sau cái chết anh hùng của binh sĩ thứ mười, Alexandre hạ lệnh dừng bước.

 Sững sờ kinh ngạc trước tinh thần của binh sĩ Alexandre, lòng trung tín họ dành cho Alexandre, biết coi nhẹ cái chết tựa lông hồng, nhà vua và toàn quân trong thành mở cửa qui hàng.

 Chúng ta cũng đang thừa hưởng chiến công của những người lính anh hùng như thế của Đức Kitô, Vua vũ trụ. Chính các thánh Tử đạo Việt Nam đã góp phần xây dựng Giáo hội Việt nam bằng lòng trung tín các Ngài đã dành cho Chúa Kitô, bằng gương anh dũng xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Chúng ta nghĩ thế nào về những cái chết anh hùng của cha ông chúng ta đã dâng hiến mạng sống mình cho Chúa ? Và chúng ta sẽ phải sống thế nào để theo gương các ngài ?

 Là con cháu các Thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta hôm nay cũng phải đương đầu với những khó khăn thử thách, có lẽ không đồng loại với những khó khăn thử thách của các Ngài, bởi vì ngày nay hầu như chẳng còn ai cấm đạo theo lối vua chúa quan quyền nước ta thời trước. Trong thế giới chúng ta ngày nay, không chỉ có Kitô giáo, mà hầu hết các tôn giáo khác, kể cả những người không tín ngưỡng cũng đang phải đối diện với một thứ “Tôn giáo kinh tế”, trong đó người ta thờ thần Mammon, Thần tài. Nhiều người chỉ biết cắm đầu chạy theo tiền tài, không còn biết ý nghĩa của cuộc sống nữa. Họ chỉ biết vùi đầu trong những thú vui thấp hèn, chỉ biết sống để hưởng thụ, sống vội sống vàng để rồi ngày mai chết sẽ ra cõi tha ma.

 Lễ kính các thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay khiến chúng ta kính phục các thánh, vì các Ngài đã mở trí mở lòng cho ta để chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả.

 Năm 1980 tại câu lạc bộ của những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một cuộc nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên ăn nói cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác.

 Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng trong xã hội ? Anh mở đầu như sau: “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận: “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”.

 Không biết cử tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại, khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.

 Giáo hội Việt Nam là một gia sản quí báu mà cha ông đã để lại cho chúng ta bằng giá máu của các ngài, để ngày nay chúng ta có ba Giáo tỉnh gồm 26 giáo phận, với hàng giáo phẩm được thiết lập chính thức vào năm 1960 để coi sóc hơn 6 triệu tín hữu. Chúng ta phải bảo vệ và xây dựng di sản ấy như các em thiếu nhi thường hát khi sinh hoạt:

Cái nhà là nhà của ta,

Công khó ông cha làm ra

Cháu con hãy gìn giữ lấy

Muôn năm với nước non nhà.

 Nếu chúng ta biết bảo vệ và xây dựng Giáo hội Việt Nam cho tốt thì chúng ta được các ngài khen là: “Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ”. Nếu chúng ta không cố gắng và làm phát huy ra vẻ đẹp mà cha ông chúng ta đã xây dựng bằng xương máu thì các ngài sẽ phải phàn nàn về thế hệ con cháu: “Đời cha vo tròn, đời con bóp méo”.

 Ngày lễ các Thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Nếu ngày nay chúng ta không phải trải qua “tử đạo đỏ” thì chúng ta có thể chấp nhận “tử đạo trắng hoặc xanh”. Hãy thực hiện lời Chúa dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).

 Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng trường kỳ. Nếu không phải đổ máu ra mà làm chứng cho Chúa thì chúng ta có thể làm chứng theo lời nói của thánh nữ Têrêsa Hài đồng: “Ơn gọi tôi ở trong Giáo hội là yêu mến”.

 

4. Suy niệm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Ga 17,11b-19

KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN

Khi một người biết mình sắp lìa đời,

người ấy thường nghĩ đến những người thân yêu phải xa cách.

Đức Giêsu cũng vậy.

Trong lời cầu nguyện với Cha trước giờ ra đi,

Ngài đã nói nhiều với Cha về các môn đệ (Ga 17,9-19).

Đây là những kẻ mà Ngài yêu đến tột cùng và kỳ cùng (Ga 13,1).

Sắp đến giờ chia tay, Thầy trò mỗi người một ngả.

Thầy thì bỏ thế gian mà “đến cùng Cha” (Ga 17,11.13).

Trò thì vẫn còn ở trong thế gian, bị thế gian thù ghét (Ga 17,11.14).

Đức Giêsu biết rõ sức mạnh của thế gian, của bóng tối,

sức mạnh mà Ngài sắp phải đối đầu.

và các môn đệ cũng sẽ phải đối diện, khi không có Ngài ở bên.

Đức Giêsu chia sẻ với Cha nỗi lo của mình về các môn đệ.

Khi còn ở với họ, Ngài đã gìn giữ họ, đã canh giữ (Ga 17,12).

Giờ đây, Ngài nài xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần (Ga 17,11b.15).

Ngài lo cho họ trong cuộc chiến với tên thủ lãnh thế gian (Ga 16,11),

dù Ngài từng nói với họ: “Thầy đã thắng thế gian!” (Ga 16,33).

Đức Giêsu biết đàn chiên rồi sẽ bị tấn công, bị cướp bóc.

Nhưng nhiệm vụ của Cha và Con là bảo vệ,

để không ai cướp được chiên khỏi tay mình (Ga 10,28-29).

Nếu các môn đệ bị thế gian thù ghét, đó đâu phải là chuyện lạ,

vì nó đã thù ghét Thầy trước rồi (Ga 15,18.24).

Bị thế gian khai trừ, chống đối, bị ngược đãi, và bị giết:

đó là thân phận của người môn đệ (Ga 15,20-21; 16,1-2; 17,14).

Đó là thân phận của người không “thuộc về thế gian.”

Thế gian ghét những ai không thuộc về nó.

Người môn đệ được Thầy Giêsu chọn ra khỏi thế gian (Ga 15,19),

rồi lại được Thầy sai vào trong thế gian (Ga 17,18).

Đức Giêsu không xin Cha đem họ ra khỏi thế gian (Ga 17,15),

chỉ mong họ ở trong thế gian mà không thuộc về nó (Ga 17,14.16),

nhưng thuộc trọn về Cha và về Con (Ga 17,6.10).

Nhờ sống giữa thế gian, họ mới làm cho thế gian tin

và nhận biết rằng chính Cha đã sai Con (Ga 17,21.23).

Những lời Đức Giêsu cầu xin với Cha đã ứng nghiệm

nơi cuộc sống và cái chết của các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam.

Chẳng ai biết được chính xác số kitô hữu

đã chịu đau khổ và chịu chết trên mảnh đất quê hương này.

Họ gồm cả nam nữ, trẻ già, linh mục, giám mục và giáo dân,

là lính hay quan, là người Việt hay nhà truyền giáo ngoại quốc.

Họ chết vì đủ kiểu tra tấn, xử trảm, xử giảo, hay chết rũ tù.

Trước khi đón nhận cái chết, họ đã chọn Đức Giêsu là Chúa.

Chọn lựa này khiến họ không thể đưa chân bước qua thập tự,

dù bước qua là thoát gông cùm, được chức quyền, bổng lộc.

Rõ ràng họ không chọn thuộc về thế gian,

không lung lay trước những mời mọc và hứa hẹn của nó.

“Vì danh Thầy” họ chịu những gì Thầy đã chịu (Ga 15,20).

Chúa Cha và Chúa Con đã gìn giữ và che chở họ,

không phải để họ tránh khỏi cái chết thảm khốc,

nhưng để họ can đảm đón nhận cái chết với nhiều tình yêu.

Nhờ ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng được mọi nỗi sợ.

Họ thường tiến ra pháp trường với sự đĩnh đạc an vui.

Vui vì biết cái chết chóng qua sẽ đưa họ ở bên Thầy mãi mãi.

Lúc nào chúng ta cũng phải sống trong thế gian.

Thế gian của các vị tử đạo là thế gian thời phong kiến.

Thế gian hôm nay có nhiều quyến rũ hơn, ru ngủ hơn.

Không có bách hại gay go, nhưng có nhiều cám dỗ ngọt ngào.

Lắm khi chúng ta bước qua thập giá mà không hay.

Xin Cha làm chúng ta nên thánh trong thế gian này (Ga 17,17),

để sau khi sống cuộc vượt qua của riêng mình,

ta được cùng ở với Chúa Giêsu trong nhà Cha (Ga 17,24).

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,

Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.

Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,

lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.

Thế gian này vàng thau lẫn lộn.

Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.

Xin cho chúng con

giữ được bản lãnh của mình,

giữ được vị mặn của muối,

và sức tác động của men,

để đem đến cho thế gian

một linh hồn, một sức sống.

Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,

chỉ sợ mình bỏ sống đạo

vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.

Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng

chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,

những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.

Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,

thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui

của người được diễm phúc nên giống Chúa.

 

5. Suy niệm (Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Cùng với bộ phim của đạo diễn Roland Emmerich, khai thác những lời đồn đoán về ngày tận thế dựa trên bộ lịch của người Maya cổ đại, được trình chiếu vào ngày 13/11/2009, nước Mỹ dập dồn tin đồn về ngày tận thế, lan truyền rộng rãi trên internet. Tờ Telegraph cho biết, những kịch bản về ngày tận thế xoay quanh một số tin đồn về việc mọi thứ sẽ biến thành tro bụi khi một hành tinh có tên Nibiru va chạm với địa cầu. Theo những tin đồn, người Sumer (sống ở thiên niên kỷ thứ tư trước Công nguyên và đạt tới trình độ khoa học kỹ thuật rất cao trước khi diệt vong) đã phát hiện hành tinh Nibiru và họ xác định được năm nó sẽ đụng độ với địa cầu vào năm 2012.

Nhân loại đã từng chứng nghiệm vào năm 2000 cũng đã từng có tin đồn về tận thế nhưng trái đất vẫn không có gì xảy ra. Rồi cũng đã từng có một số giả thuyết cho rằng thảm họa diệt vong sẽ xảy ra vào tháng 5/2003, nhưng khi chẳng có gì xảy ra thì thời điểm đó được lùi tới 21/12/2012, ngày cuối cùng trong lịch của người Maya cổ. Theo một số lời đồn đại, vào ngày đó sẽ có hiện tượng các hành tinh tạo thành đường thẳng. Nhưng 21/12/2012 qua đi…

Suy niệm

Ngày tận thế, luôn được thiên hạ quan tâm và phỏng đoán qua mọi thời, chính vì thế những tin đồn về ngày tận cùng của trái đất luôn làm cho thiên hạ dễ tin, gây hoang mang trong xã hội. Chúa Giêsu đã nói về thời điểm ngày tận thế: “Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi” (Mc 13,32). Ngài nói về những tín hiệu trong thời đại xảy ra trước ngày quang lâm:

  • Những ngày khốn cùng do thiên tai và chiến tranh, gợi lại những gì sách Barúc thuật lại 12 việc đau thương sẽ đến trước kỷ nguyên mới (x. Br 2,5-13).
  • Khi sử dụng hình ảnh mặt trời, mặt trăng sẽ tối tăm, Chúa Giêsu đã sử dụng phần ngôn ngữ phổ thông để cho dân dễ hiểu, những ý niệm cảnh chứng mà Cựu ước loan báo (x. Am 8, 9; 2,14-15; 3,15; Is 13,10; 34, 4).
  • Và những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất được tập hợp. Hình ảnh người được tuyển chọn được loan báo bằng dân tộc Do Thái được quy tụ từ bốn phương trời (Is 27,13; 35,8-10; Mk 7,11-12; Dcr 10,6-11; Tv 11,1-3).

Những tín hiệu xảy ra trong đời sống hiện tại với chiến tranh, bạo lực, khủng bố đang xảy ra hằng ngày trên thế giới; thêm vào đó thiên tai bão lụt, động đất… nhắc nhở cho chúng ta cuộc sống hiện tại không bền vững, và ngày tận cùng của trái đất cũng sẽ xảy ra như quy luật: “có sinh có tử”. Chính vì ý thức về ngày tận thế, ngày Chúa quang lâm, Đức Giêsu nói với chúng ta khi Ngài nhắn nhủ các môn đệ: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay (Lc 12,35).

Trong ý nghĩa của ngày cánh chung quang lâm, mỗi giây phút trong cuộc đời ta đều có tính quyết định cho cả cuộc đời như thánh Giacôbê xác quyết: “Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới” (Gc 5,8). Bền tâm vững chí trong từng bước của cuộc đời. Sẵn sàng cho ngày Chúa quang lâm xét xử riêng vào ngày Chúa đến khi chúng ta nhắm mắt chia tay lìa cõi thế hay vào ngày tận thế, Chúa quang lâm xét xử chung nhân loại: Kể từ hôm nay mỗi giây phút sống, sống đẹp với chính mình và anh em chung quanh, sống hạnh phúc trong bình an vì được Lời Chúa soi dẫn, là luôn sống phút giây cuối cùng trong cuộc đời lữ hành trần thế dù chúng ta vẫn sống hiện tại. Cho nên, giờ Chúa quang lâm không phải là giờ kinh hãi, nhưng là thời điểm vui tươi đón chàng rể đến (x. Mt 25,1-13), giây phút chờ đợi được gặp Ðấng là nguồn ánh sáng. Giây phút chúng ta đem ánh lửa mà mình luôn chong đèn tỉnh thức, hòa nhập vào nguồn ánh sáng của hội hoa đăng để bừng thêm trong ánh sáng huy hoàng như người thôn nữ của Tagore, mang ngọn đèn cùng hội hoa đăng thắp sáng cả một trời sống: “Em đem đèn đi dự hội hoa đăng… Tôi đứng ngắm cây đèn nhỏ bé vô ích biến vào đám ánh sáng đông đông” (Lời Dâng, bài số 064).

Ý lực sống

“Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2,10c).